Giải trí

Hà Nội xây công viên 'Disneyland' nghìn tỷ

字号+ 作者:NEWS 来源:Bóng đá 2025-03-01 08:18:32 我要评论(0)

Dự án Công viên văn hóa du lịch vui chơi giải trí Kim Quy tại huyện Đông Anh có quy mô khoảng 190ha,kết quả giải vô địch tây ban nhakết quả giải vô địch tây ban nha、、

Dự án Công viên văn hóa du lịch vui chơi giải trí Kim Quy tại huyện Đông Anh có quy mô khoảng 190ha,àNộixâycôngviênDisneylandnghìntỷkết quả giải vô địch tây ban nha đạt tiêu chuẩn của một dự án công viên quốc tế với tổng mức đầu tư hàng nghìn tỷ đồng. Đây là công viên theo hình thức kinh doanh dịch vụ với việc doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, thu phí hoàn vốn.

{ keywords}

Mô hình quy hoạch công viên Kim Quy dự kiến sẽ được động thổ vào ngày 2/9.

Dự án công viên nghìn tỷ

Theo ông Nguyễn Văn Tứ, Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội, để thúc đẩy sự phát triển hai bên tuyến đường Nhật Tân- Nội Bài (đường Võ Nguyên Giáp), thành phố Hà Nội đã thành lập Ban chỉ đạo khu vực phát triển hai bên đường Võ Nguyên Giáp với nhiệm vụ xúc tiến đầu tư, phát triển đầu tư các dự án thành phần đô thị trong khu vực Nhật Tân-Nội Bài.

Cùng với việc công bố, bàn giao Đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng hai bên tuyến đường Nhật Tân–Nội Bài, ngày 23/6 UBND thành phố Hà Nội đã ban hành văn bản 3757 về việc nghiên cứu lập hồ sơ đề xuất dự án công viên văn hoá Kim Quy thuộc huyện Đông Anh.

Trước đấy thành phố nhận được công văn 226 ngày 14/6/2016 của Công ty CP tập đoàn Mặt trời (Sungroup) đề nghị UBND thành phố Hà Nội chấp thuận cho phép thiết kế lập quy hoạch chi tiết 1/500 được duyệt của dự án công viên văn hóa Kim Quy ở vùng quy hoạch khu đô thị du lịch sinh thái nước kết hợp dịch vụ huyện Đông Anh.

“Hiện các thủ tục liên quan đến dự án công viên Kim Quy đang được gấp rút để hoàn thành. Tổng mức đầu tư của dự án chưa cụ thể về con số nhưng phải vài nghìn tỷ đồng. Về quy mô diện tích của dự án thì đã có, còn về chức năng đây là dự án công viên vui chơi giải trí kết hợp dịch vụ.

Đây là công viên theo hình thức kinh doanh dịch vụ với việc doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư. Thành phố sẽ bố trí ở công viên có khu vực công cộng phục vụ cho dân cư nhưng tinh thần đây vẫn là công viên kinh doanh dịch vụ thu phí”, đại diện Sở KH&ĐT Hà Nội cho biết.

Công viên kinh doanh có hợp lý?

Được biết, đơn vị đề xuất thực hiện dự án này (Sungroup) là một doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong việc triển khai các dự án khu vui chơi giải trí khu nghỉ dưỡng ở nhiều tỉnh thành.

Mới đây, Sungroup cũng vừa khánh thành khu vui chơi giải trí mang tên Sun World Ha Long Park được thiết kế theo mô hình công viên Disneyland nổi tiếng tại thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) có tổng giá trị đầu tư lên tới 6.000 tỷ đồng.

“Khi doanh nghiệp đề xuất thực hiện dự án công viên Kim Quy đã tính toán kỹ lưỡng. Chúng tôi là doanh nghiệp có kinh nghiệm trong việc triển khai các dự án vui chơi giải trí, các dự án công viên theo tiêu chuẩn quốc tế với việc lựa chọn những nhà thầu, nhà thiết kế có uy tín lớn của thế giới”, đại diện Sungroup cho biết.

Trao đổi với PV Tiền PhongKTS Phạm Thanh Tùng, Chánh Văn phòng Hội Kiến trúc sư Việt Nam cho rằng, việc Hà Nội có thêm những công viên trong đó có công viên đạt chuẩn quốc tế là tin vui.

Tuy nhiên, theo ông Tùng việc đầu tư các dự án công viên lớn tiêu chuẩn quốc tế xa trung tâm cần phải xem xét kỹ bởi hiện trên địa bàn một số công viên được đầu tư lớn nhưng chưa phát huy hết hiệu quả của nó.

“Các công viên được đầu tư lớn của Hà Nội như công viên Hòa Bình rộng hơn 20ha hay công viên Yên Sở 300ha, đầu tư xây dựng hàng tỷ đồng, nhưng hiện nay cả hai vẫn vắng vẻ chưa thực sự thu hút được người dân.

Dù dự án công viên Kim Quy này do doanh nghiệp bỏ tiền ra thực hiện, nhưng không phải vì thế mà chúng ta không xem xét kỹ tính hiệu quả của nó, bởi có nhiều dự án khi kinh doanh không có hiệu quả nhà đầu tư lại xin chuyển đổi làm biến tướng dự án vốn được phê duyệt như ban đầu”, ông Tùng nói.

Nguyên phó Chủ tịch HĐND thành phố Hà Nội ông Lê Văn Hoạt cho rằng, chủ trương thành phố kêu gọi doanh nghiệp thực hiện đầu tư các dự án công viên vui chơi giải trí là chủ trương hợp lý.

“Khi giao cho doanh nghiệp thực hiện và kinh doanh thì họ phải thực hiện đúng trong khuôn khổ quy định chứ không phải giao cho doanh nghiệp họ muốn làm gì thì làm.

Cụ thể, anh giao cho doanh nghiệp nhưng không phải anh lỏng tay cương để họ làm, để họ kinh doanh hay triển khai dự án không đúng với phê duyệt mà nhà nước phải đặt ra các điều kiện, yêu cầu rõ ràng”, ông Hoạt nói.

Trước đó trả lời báo chí, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung cho biết, trong 5 năm tới Hà Nội sẽ xây 25 công viên với 5 công viên đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Cụ thể, công viên giải trí đẹp như công viên Disneyland có tên gọi là Kim Quy, rộng trên 190ha được xây dựng tại huyện Đông Anh.

Theo Tiền phong

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng trao đổi với các thế hệ thầy và trò Học viện tại lễ kỷ niệm. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Chia sẻ tại ngày hội lớn này, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Năm 1953, chỉ 8 năm sau ngày cách mạng thành công, ngay trong giai đoạn kháng chiến ác liệt, Đảng và Nhà nước đã quyết định thành lập một trường riêng để đào tạo nhân lực cho lĩnh vực bưu điện. Sứ mệnh ban đầu đặt ra là đào tạo cả lớp tinh hoa, những người trưởng ngành, trưởng ty và đông đảo lực lượng thực hành, triển khai. “Cách đào tạo của trường thì có thể thay đổi, ngành nghề có thể mở rộng, nhưng sứ mệnh ban đầu ấy thì Học viện nên giữ và phải giữ”, Bộ trưởng nhắn nhủ.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng trao Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông vì đã có nhiều thành tích trong công tác giai đoạn 2018 - 2022.

Người đứng đầu ngành TT&TT đánh giá: Suốt 70 năm qua, ở giai đoạn nào, trường cũng hoàn thành sứ mệnh cao cả là trồng người. Nhà trường đã đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý có năng lực và tâm huyết, đáp ứng kịp thời nhu cầu của ngành trong suốt các thời kỳ.

PGS. TS Đặng Hoài Bắc, Giám đốc Học viện phát biểu tại lễ kỷ niệm. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

PGS. TS Đặng Hoài Bắc trong diễn văn chào mừng, cũng khẳng định rằng 70 năm qua, Trường Bưu điện – Vô tuyến điện trước đây và nay là Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hiện Học viện là một trong các trường đại học dẫn đầu về chuyển đổi số giáo dục với một hệ sinh thái số hoàn chỉnh dành cho sinh viên.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chụp ảnh lưu niệm cùng các tập thể, cá nhân đã đóng góp vào sự phát triển của trường Bưu điện. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập trường Bưu điện – Vô tuyến điện, ngày 8/9, Học viện đã tổ chức lễ khánh thành Bia kỷ niệm nơi đặt trụ sở đầu tiên của trường tại tỉnh Thái Nguyên.

Học viện cũng đã tặng kỷ niệm chương tri ân các địa phương nơi trường Bưu điện từng “đóng quân”; tri ân gia đình các cố hiệu trưởng, nguyên lãnh đạo trường Bưu điện các thời kỳ; vinh danh GS.TS Trần Đức Hân, cựu sinh viên khóa 1 trường Bưu điện; và tri ân GS.TSKH Đỗ Trung Tá, cựu sinh viên trường Bưu điện và Đại học Thông tin liên lạc, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Học viện.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhìn nhận: Việc khánh thành Bia kỷ niệm nơi đặt trụ sở đầu tiên của trường còn thể hiện tấm lòng tri ân, biết ơn của cán bộ, giảng viên, sinh viên Học viện hôm nay với những đóng góp, hy sinh thầm lặng của các thế hệ thầy và trò đầu tiên của nhà trường.

“Không giữ gìn quá khứ thì sẽ không có bản sắc và cũng không đi xa được. Cánh diều muốn bay cao thì phải có sợi dây giữ nó với gốc, nếu không thì cánh diều sẽ bị gió cuốn đi và rơi xuống. Biết ơn phải luôn là một giá trị cốt lõi của Học viện”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông, nguyên chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Học viện Đỗ Trung Tá. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Hồi tưởng lại những năm tháng gắn bó với Học viện qua các thời kỳ, nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông Đỗ Trung Tá nhắn nhủ các sinh viên để vượt qua các khó khăn thì cần nhất là kiên nhẫn, cần mẫn, say mê vào cống hiến:

Trở về Học viện sau 20 năm ra trường, Phó Giám đốc Rikkeisoft Nguyễn Viết Lâm cam kết sẽ góp phần để ngành TT&TT có vị thế cao trên bản đồ công nghệ thế giới, đồng thời tiếp tục dìu dắt, hỗ trợ các lứa sinh viên hiện nay và tương lai.

Sinh viên năm thứ ba Ngô Kiều Anh tin rằng Học viện sẽ luôn là môi trường tốt để sinh viên phát triển, từ đó phấn đấu gặt hái được thành công, trở thành những công dân xuất sắc.

Viết nên những trang mới của Học viện

Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông đã xác định chuyển đổi số theo mô hình “Quốc gia số thu nhỏ” vào năm 2025, xây dựng “Trường đại học số” đầu tiên ở Việt Nam và làm hình mẫu đại học chuyển đổi số quốc gia, hướng đến đại học số tiêu biểu của khu vực ASEAN, thuộc nhóm 10 đại học chuyển đổi số hàng đầu châu Á.

Trong khuôn khổ lễ kỷ niệm, hệ thống Đại học số PTIT đã được khai trương. Với 11 phân hệ chính, hệ thống cho phép các thí sinh đăng ký xét tuyển, nhập học online trên cổng thông tin duy nhất. Đặc biệt, tương tác của chatbot AI hỗ trợ các thí sinh tìm hiểu thông tin về Học viện. 

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cùng lãnh đạo Học viện thực hiện nghi thức khai trương hệ thống Đại học số PTIT.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ: Hầu như trong mọi giai đoạn phát triển, đều có một trường đại học riêng cho ngành, thể hiện tầm nhìn chiến lược của các thế hệ lãnh đạo ngành về tầm quan trọng của đào tạo, của nhân lực, của con người.

Ngành TT&TT hiện có đủ bộ 3 về đào tạo: 1 đại học TT&TT, 1 cao đẳng TT&TT và 1 trường đào tạo cán bộ TT&TT. Cả 3 trường của Bộ đều phải đào tạo đủ các lĩnh vực của Bộ, phải là trường số một về đào tạo các lĩnh vực của ngành TT&TT, là trường số một về đáp ứng nhu cầu nhân lực cho ngành TT&TT. Học viện phải luôn bám sát sự phát triển của Bộ, ngành, đất nước và thời đại.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tặng quà cho Học viện. 

Chỉ ra những điểm mới rất quan trọng của cuộc đổi mới lần 2 của ngành so với cuộc đổi mới lần 1, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng yêu cầu Học viện cần nhận thức sâu sắc những thay đổi này để đổi mới đào tạo.

Cụ thể, công nghệ số của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mở rộng giới hạn của Học viện. Những khó khăn lớn và kéo dài như thiếu giáo viên, thiếu học liệu chất lượng, thiếu phòng lab thực tập, thiếu đất, thiếu kết nối với các cựu sinh viên, quy mô học viện tăng chậm... sẽ được giải quyết bằng những cách tiếp cận mới. Ước mơ lớn và góc nhìn mới là dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành nhà lãnh đạo thời chuyển đổi số.

Nhấn mạnh mỗi thế hệ phải kế thừa quá khứ và mở ra tương lai, Bộ trưởng yêu cầu thế hệ lãnh đạo hiện nay của Học viện “Hãy đi con đường của mình và viết nên câu chuyện của thế hệ mình. Hãy đến một đích mới. Tìm ra thế hệ kế tiếp và rời đi để cho một thế hệ khác viết nên trang mới nữa của Học viện”.

Người đứng đầu ngành TT&TT cũng mong muốn toàn thể cán bộ, công nhân viên, giảng viên, nghiên cứu viên, học viên và sinh viên Học viện tiếp tục phát huy tinh thần tiên phong và 10 chữ vàng “Trung thành - Dũng cảm - Tận tụy - Sáng tạo - Nghĩa tình” của ngành cùng phương châm hành động mới “Làm gương - Kỷ cương - Trọng tâm - Bứt phá” để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 của trường. “Bộ TT&TT luôn bên cạnh Học viện, định hướng và tạo mọi điều kiện tốt nhất để Học viện phát triển trở thành đại học hàng đầu về TT&TT ở Việt Nam, trong khu vực và trên thế giới”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.

Chủ tịch Hội đồng Học viện Từ Minh Phương phát biểu đáp từ tại lễ kỷ niệm. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

GS.TS Từ Minh Phương, Chủ tịch Hội đồng Học viện cam kết tập thể lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên và sinh viên nhà trường sẽ tiếp thu và triển khai có hiệu quả các chỉ đạo của Bộ trưởng. Thầy và trò Học viện sẽ nỗ lực, năng động, sáng tạo hơn nữa để đưa trường trở thành đơn vị nghiên cứu và đào tạo xuất sắc, đóng góp nhân lực, tri thức và chuyển giao công nghệ phục vụ chuyển đổi số quốc gia.

Được thành lập tại xã Cao Vân (nay là xã Phú Xuyên), huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, cùng với các giai đoạn lịch sử của dân tộc, trường đã có nhiều lần đổi tên: Trường chuyên nghiệp Bưu điện, trường cán bộ Bưu điện - Truyền thanh, trường Đại học Kỹ thuật thông tin liên lạc, Trường Cán bộ Bưu điện, Trung tâm Đào tạo Bưu chính viễn thông 1 và nay là Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông.

Đọc toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại hội nghị này." alt="Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông hãy đến một đích mới" width="90" height="59"/>

Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông hãy đến một đích mới

Binh dang anh 1

Ảnh minh họa. Nguồn: Freerange Stock.

Năm 1933, Ernest Labrousse xuất bản cuốn Esquisse du mouvement des prix et des revenus en France au xvme siècle (Phác thảo về diễn biến giá cả và thu nhập ở Pháp vào thế kỷ 18), một nghiên cứu đồ sộ trong đó ông chỉ ra diễn biến qua nhiều thập niên trước Cách mạng Pháp: tiền lương nông nghiệp đã giảm so với giá lúa mì và thu nhập từ đất đai, tất cả đều trong bối cảnh áp lực nhân khẩu tăng mạnh.

Dù không tuyên bố dứt khoát đó là nguyên nhân duy nhất khiến cuộc Cách mạng nổ ra, nhưng xem ra rõ ràng diễn biến này chỉ khiến cho tầng lớp quý tộc và chế độ chính trị tồn tại bấy lâu ngày càng trở nên mất lòng dân.

Năm 1965, trên trang nhất của nghiên cứu Le Mouvement du Profit en France au xixe siècle (Diễn biến lợi nhuận ở Pháp trong thế kỷ 19), Jean Bouvier và các đồng tác giả đã mô tả chương trình nghiên cứu qua đó họ khẳng định: “Chừng nào thu nhập của các tầng lớp xã hội đương thời vẫn còn nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học, thì việc cố gắng viết một lịch sử kinh tế và xã hội xác thực vẫn còn vô nghĩa”.

Thường gắn liền với trường phái Annales, vốn có ảnh hưởng đặc biệt trong nghiên cứu lịch sử Pháp giai đoạn 1930 đến 1980, lịch sử kinh tế và xã hội mới này không bỏ qua việc nghiên cứu các hệ thống sở hữu. Năm 1931, Marc Bloch xuất bản nghiên cứu kinh điển về các hình thái hệ thống nông nghiệp thời trung cổ và hiện đại. Năm 1973, Adeline Daumard trình bày kết quả của một cuộc khảo sát rộng lớn được thực hiện dựa trên văn khố về tài sản thừa kế của Pháp thế kỷ 19.

Từ thập niên 1980, phong trào nghiên cứu tuy có chậm lại đôi chút nhưng đã để lại một dấu ấn kéo dài trong thực tiễn nghiên cứu khoa học xã hội. Suốt thế kỷ 20 đã có vô số nghiên cứu của nhiều nhà sử học, xã hội học và kinh tế học, từ Francois Simiand đến Christian Baudelot và từ Emmanuel Le Roy Ladurie đến Gilles Postel Vinay, về tiền lương và giá cả, thu nhập và của cải, thuế thập phân và tài sản.

Bên cạnh đó, các nhà sử học và kinh tế học Mỹ và Anh cũng mở đường cho lịch sử phân phối của cải. Năm 1953, Simon Kuznets kết hợp các tài khoản quốc gia đầu tiên mà ông đã giúp thiết lập sau những tổn thương của thời kỳ Suy thoái, với dữ liệu từ thuế thu nhập liên bang (ra đời vào năm 1913, sau một cuộc đấu tranh chính trị và hiến pháp kéo dài) để ước tính tỷ lệ thành phần thu nhập cao trong tổng thu nhập quốc gia.

Nghiên cứu của ông chỉ bao gồm một quốc gia duy nhất (Hoa Kỳ) và trong một thời gian tương đối ngắn (1913-1948), nhưng là nghiên cứu đầu tiên thuộc loại này, và đã gây ra một chấn động lớn. Robert Lampman cũng thực hiện nghiên cứu tương tự vào năm 1962 với dữ liệu thừa kế của Cục thuế liên bang. Năm 1978, Tony Atkinson đẩy mạnh phân tích hơn nữa, sử dụng các nguồn dữ liệu thừa kế của Anh. Alice Hanson Jones thậm chí còn quay ngược thời gian xa hơn: vào năm 1977, bà đã công bố kết quả của một cuộc điều tra rộng lớn về tài sản của người Mỹ dưới thời thuộc địa.

Dựa trên tất cả các nghiên cứu trước đó, một chương trình nghiên cứu mới về lịch sử thu nhập và thịnh vượng đã được tổ chức vào đầu những năm 2000, mà tôi may mắn được tham gia với sự hỗ trợ nhiệt thành của nhiều đồng nghiệp như Facundo Alvaredo, Tony Atkinson, Lucas Chancel, Emmanuel Saez, và Gabriel Zucman.

So với các nghiên cứu quá khứ, làn sóng mới này có lợi thế về các phương tiện kỹ thuật tiên tiến. Vào thời kỳ từ năm 1930 đến 1980, Labrousse, Daumard và Kuznets đã thực hiện nghiên cứu hầu như hoàn toàn bằng thủ công, trên thẻ hồ sơ.

Mọi tập hợp dữ liệu và mọi bảng kết quả đều đòi hỏi đầu tư kỹ thuật đáng kể, đôi khi khiến nhà nghiên cứu không còn hơi sức để lo liệu chu toàn nhiệm vụ diễn giải lịch sử, huy động các nguồn lực khác và phân tích phản biện các hạng mục, nên rõ ràng là đã làm cho lịch sử trở nên yếu kém và đôi khi bị coi là tập trung hạn hẹp (nghĩa là quá tập trung vào việc tạo ra các trình tự lịch sử có thể so sánh theo thời gian và không gian, một việc tuy có thể được coi là cần thiết nhưng không đủ để thúc đẩy tiến bộ trong khoa học xã hội).

Ngoài ra, các nguồn dữ liệu thu thập trong làn sóng nghiên cứu đầu tiên gần như không thể truy nguyên, làm hạn chế khả năng tái sử dụng và thiết lập một quy trình tích lũy thực sự.

Ngược lại, những tiến triển tin học hóa kể từ năm 2000 đã giúp mở rộng phân tích, bao trùm được những khoảng thời gian dài hơn và nhiều quốc gia hơn. Dựa trên chương trình nghiên cứu này, vào năm 2021, Cơ sở dữ liệu về bất bình đẳng thế giới (WID.world) đã thu thập những nỗ lực kết hợp của gần 100 nhà nghiên cứu liên quan đến 80 quốc gia trên mọi châu lục, với dữ liệu về phân phối thu nhập và thịnh vượng mà có những trường hợp là từ thế kỷ 18 và 19, và tiếp tục cho đến những thập niên đầu tiên của thế kỷ 21.

Việc nhìn từ góc độ so sánh trong khung thời gian dài hơn đã giúp các nhà nghiên cứu thực hiện nhiều phép so sánh hơn, cũng như đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc giải thích các diễn biến quan sát trên phương diện xã hội, kinh tế và chính trị.

" alt="Nguồn gốc của sự chênh lệch giàu nghèo" width="90" height="59"/>

Nguồn gốc của sự chênh lệch giàu nghèo