Với chiếc điện thoại di động mở ứng dụng có tên Boki, nhóm VTeam gồm 4 sinh viên Nguyễn Đắc Sang, Hồ Hoàng Hiệp, Nguyễn Văn Hưng và Đinh Trọng Nam đến từ Đại học FPT - Hà Nội đã thử tìm kiếm phòng trong khu vực mong muốn. Một loạt các yêu cầu được một thành viên trong nhóm đưa ra như: “Phòng cho nữ, khu vực Dương Nội, Hà Đông với giá là 500.000 đồng”. Một thành viên khác tìm kiếm theo các yêu cầu trên. Một loạt phòng của các khách sạn, nhà nghỉ đã đăng ký trên ứng dụng hiển thị.
Người dùng có thể lựa chọn phòng dựa trên mô tả, hình ảnh, giá cả mà chủ khách sạn, nhà nghỉ đưa ra. Bên cạnh đó, ứng dụng còn lưu trữ và hiển thị công khai đánh giá của các du khách đã ở tại khách sạn, nhà nghỉ đó trước đây để người dùng tiện so sánh. Nếu ưng ý, người dùng có thể đặt phòng ngay chỉ với thao tác “Chọn”. Một khoản phí đặt cọc do người dùng và chủ khách sạn, nhà nghỉ tự thỏa thuận sẽ được trừ qua tài khoản tín dụng người dùng để xác nhận việc đặt phòng. Khi trả phòng, người dùng được hoàn lại khoản này. Phí sử dụng ứng dụng nằm trong khoảng 3-5% tổng tiền phòng thanh toán sau khi kết thúc thời gian lưu trú.
Hoàn tất đặt phòng, một mã QR Code được gửi đến người dùng. Đây cũng chính là “chìa khóa” phòng mà người dùng đã đặt. “Mã QR Code được gửi đến điện thoại di động nên người dùng có thể dễ dàng lưu giữ, giảm thiểu tình trạng hỏng, mất chìa khóa. Mã này được dùng để mở và khóa phòng, thay cho chìa khóa truyền thống. Người dùng có thể chia sẻ mã cho bạn hoặc người thân ở cùng phòng với mình”, sinh viên Hồ Hoàng Hiệp, trưởng nhóm VTeam chia sẻ.
![]() |
Vì “chìa khóa phòng” ảnh hưởng đến độ an toàn của khách lưu trú nên ứng dụng Boki tạo ra một số tính năng nâng cao tính bảo mật cho mã QR Code. Một mã QR Code chỉ có hiệu lực mở và khóa phòng trong vòng 24 tiếng. Quá thời gian này, ứng dụng sẽ tự động gửi một mã QR Code mới cho người dùng. Chủ khách sạn, nhà nghỉ và người dùng đều có thể theo dõi được lịch sử mở, khóa phòng nhờ cơ sở dữ liệu lưu trên hệ thống. Tính năng giúp khách sạn, nhà nghỉ có lưu lượng khách đặt, trả phòng lớn hoặc trong trường hợp người dùng nghi ngờ phòng nghỉ bị đột nhập trái phép có thể kiểm tra lại một cách chính xác.
Để kiểm thử tính năng mở và khóa phòng bằng QR Code, nhoám 4 sinh viên này đã chế tạo hẳn một mô hình có cửa ra vào, kết nối với ứng dụng qua cảm biến mã QR Code lắp đặt ở cửa. Chạy thử sản phẩm cho thấy cửa ra vào mở và đóng trơn tru khi quét mã QR Code từ điện thoại di động. Theo nhóm, chi phí lắp đặt thiết bị này từ 500.000 đồng –-1.000.000 đồng, khá phù hợp cho các khách sạn, nhà nghỉ từ bình dân đến trung và cao cấp. Giao diện Boki với tông màu trắng chủ đạo, các nút thao tác được thiết kế gọn gàng, đẹp mắt, tạo ấn tượng khá tốt với người dùng.
Ý tưởng về ứng dụng đặt phòng và mở khóa phòng thông minh được nhóm sinh viên Nguyễn Đắc Sang, Hồ Hoàng Hiệp, Nguyễn Văn Hưng và Đinh Trọng Nam ấp ủ từ khá lâu, qua những lần trải nghiệm dịch vụ đặt phòng khách sạn từ truyền thống đến hiện đại. Theo chia sẻ của nhóm, hiện nay khách sạn, nhà nghỉ truyền thống chủ yếu vẫn yêu cầu khách du lịch liên hệ trực tiếp với chủ khách sạn, nhà nghỉ để đặt phòng và nhận chìa khóa phòng. Các mô hình hiện đại được giới trẻ yêu thích như Airbnb cho phép người dùng đặt phòng, thanh toán trực tuyến nhưng vẫn phải nhận chìa khóa từ chủ khách sạn, nhà nghỉ khi đến nơi lưu trú.
" alt=""/>Sinh viên công nghệ làm ứng dụng đặt phòng và khóa cửa lấy cảm hứng từ IoTTheo trang Finantial Times, một nhà bình luận giải thích rằng các thế hệ trẻ em Nhật Bản đã được nuôi dưỡng suy nghĩ về robot giống như những anh hùng hữu ích. Chẳng hạn Astro Boy, một bộ truyện tranh nổi tiếng đã bán được 100 triệu bản trên toàn thế giới. Astro Boy kể câu chuyện về một robot hình người được tiến sỹ Umataro Tenma tạo ra để thay thế đứa con trai đã mất của mình. Được hỗ trợ bởi bảy siêu quyền năng, bao gồm một khẩu súng máy có thể thu gọn trong hông, Astro Boy chiến đấu với cái ác và sự bất công. Tham quan bảo tàng khoa học và đổi mới Miraikan ở Tokyo, bạn sẽ thấy trẻ em Nhật Bản thích thú ra sao trước robot Asimo.
Masatoshi Ishikawa, một giáo sư người máy tại trường đại học Tokyo, có một cách giải thích khác nữa. Ông cho rằng có ảnh hưởng từ niềm tin tôn giáo. Trong khi các tôn giáo độc thần của phương Tây khó khăn khi chấp nhận việc có một "cơ thể phi hữu cơ", một vật thể mang hình hài con người và có trí thông minh, thì các tôn giáo tâm linh của phương Đông lại thấy dễ dàng hơn khi tin rằng robot có thể có một tinh thần riêng biệt.
"Tâm trí tôn giáo Nhật Bản có thể dễ dàng chấp nhận loại máy móc như robot tồn tại",ông nói. "Chúng tôi coi họ như bạn bè và tin rằng họ có thể giúp con người".
Giáo sư Ishikawa nói rằng có hai loại robot: loại làm công việc của con người và loại giúp con người tăng hiệu suất. Chúng ta đã nghe quá nhiều về loại robot đầu tiên và quá ít về loại thứ hai. Vì người rô bốt không bao giờ phàn nàn, nên chúng có thể giúp con người đối phó với những công việc liên quan đến sự bẩn thỉu, mất vệ sinh, những việc tay chân nặng nhọc và những việc nguy hiểm. Những quốc gia có mức độ sử dụng robot cao nhất có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất.
Điều này cho thấy những nền kinh tế mạnh của châu Á ngày càng sử dụng nhiều robot. Robot đang giúp giải quyết một vấn đề nhân khẩu học cấp tính khi dân số xã hội nhanh chóng già đi. Một số xã hội châu Á thích sử dụng robot để bổ sung lực lượng lao động bị thu hẹp của họ, hơn là sử dụng người nhập cư. Điều đó ngụ ý rằng robot sẽ ngày càng được dùng nhiều hơn, không chỉ trong các nhà máy, mà còn cả trong các gia đình và bệnh viện, nơi chúng sẽ cần những khả năng khác nhau. Sự tương tác giữa con người và robot đang bùng nổ trên khắp thế giới.
Kaname Hayashi, người sáng lập và giám đốc điều hành của GrooveX, nói rằng một thế hệ robot thứ ba cần được sinh ra, để kết hợp phần cứng và phần mềm, tạo ra các robot hình người biết cảm nhận tình cảm.
Ông Hayashi, người đã giúp phát triển Pepper trong khi đang làm việc tại SoftBank, đang tạo ra một robot như vậy có tên là LOVOT (kết hợp giữa tình yêu (love) và robot) ở công ty mới thành lập của ông. "LOVOT không phải là một cơ thể sống nhưng nó giúp bạn bớt gánh nặng, khiến bạn cười, khiến bạn hạnh phúc. Nó làm trái tim bạn ấm áp".
"Chúng tôi muốn xây dựng mối quan hệ giữa con người và máy móc mà chúng tôi có thể tin tưởng",ông Hayashi nói.
Terah Lyons, giám đốc điều hành của hãng Partnership on AI, một tập đoàn công nghệ bao gồm các thành viên ở Mỹ và châu Á, cho thấy sự nhiệt tình của xã hội Nhật Bản đối với xu thế tự động hóa, tương phản hoàn toàn với nỗi "hoảng sợ đang lan rộng" khắp nước Mỹ. "Công nghệ không phải là định mệnh", Terah Lyons nói. Nó phụ thuộc lớn vào văn hóa chính trị và kinh doanh.
Chúng ta có sức mạnh để tạo ra những kết quả như mong muốn. Các xã hội phải vận dụng công nghệ theo những khát khao mà chúng ta muốn và nói cho robot biết phải làm gì.
" alt=""/>Châu Á đã học cách 'yêu' robot, và phương Tây nên học hỏi theoVào năm 1987, khi chiếc xe hơi đầu tiên được bán ra, không ai tin rằng xe hơi sẽ thay thế được ngựa - đến nỗi tốc độ của xe hơi được người ta gọi là "mã lực" để dễ bề so sánh. Ngày nay, có hơn 1 tỷ xe hơi đang lưu thông trên toàn thế giới.
Tương tự, khi những chiếc tai nghe Bluetooth lần đầu xuất hiện vào cuối những năm 1990, chúng được đón nhận không mấy tích cực lắm. Bước đi trên một góc phố với một ngón tay đặt trên tai ư? Bạn trông như một thành viên đặc vụ nào đó, hay có khi là... tâm thần cũng nên. Thế nhưng chỉ 4 năm sau đó, nó đã được tạp chí Time bình chọn là phát minh vĩ đại nhất của năm 2002. Tiếp tục "tua nhanh" đến 15 năm sau nữa, chúng ta có chiếc AirPods - vốn ban đầu bị chế nhạo là trông như một cây bông ngoáy tai cỡ đại - hiện đã trở thành chiếc headphone thực sự không dây bán đắt hàng nhất thế giới.
Và khi Amazon tung ra thiết bị Echo vào 4 năm trước, nếu bạn nghĩ rằng có thể yêu cầu một cuộn giấy vệ sinh thông qua một trợ lý gọi là "Alexa", người ta sẽ tìm cách đưa bạn vào viện tâm thần càng nhanh càng tốt. Thế mà hiện nay, có đến gần 50 triệu thiết bị điều khiển giọng nói đã được bán ra.
Điều gì làm cho công nghệ được ứng dụng hàng loạt như vậy? Tại sao kính Google Glass thất bại, nhưng người tiêu dùng lại háo hức mua hơn 1 triệu tai nghe thực tại ảo? Điều gì biến bạn từ một kẻ bên lề thành một người ủng hộ mạnh mẽ xe máy điện?
Mọi khuynh hướng tiến bộ công nghệ chủ đạo và sản phẩm bạn sử dụng đều từng bị xem là phiên bản kỳ quặc của một thứ bạn chưa từng sử dụng. Từng có thời người ta chẳng bao giờ muốn bước vào xe hơi của người khác (Uber) hay ngủ trong nhà người khác (Airbnb). Tương tự, thanh toán trên các thiết bị di động từng bị xem là chẳng khác gì đại hoạ khi lịch của người Maya chấm dứt.
Điều gì đã thay đổi? Đó là sự chấp nhận của xã hội.
Vào năm 1935, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ - Thổ Nhĩ Kỳ Muzafer Sherif đã tiến hành một thử nghiệm nhằm kiểm chứng giả thuyết của mình rằng các yếu tố xã hội sẽ ảnh hưởng lên nhận thức. Để thử nghiệm thuyết của Sherif, các cá nhân trong một căn phòng tối đã được cho xem một chấm sáng có vẻ như di chuyển, nhưng thực ra lại đứng yên một chỗ. Khi những người tham gia được hỏi chấm sáng đã di chuyển xa như thế nào, các nhóm người đã cho thấy sự thống nhất trong phát hiện của họ dựa trên "hành vi xã hội" của những người ngang hàng. Nói cách khác, ông đã chứng minh được rằng khi đối mặt với ảnh hưởng và áp lực của việc ra quyết định trong nhóm, các cá nhân sẽ đưa ra câu trả lời hướng về những người trong nhóm - dù cho chấm sáng chưa bao giờ di chuyển. Tính phổ biến dẫn đến ý thức chung.
Nhiều nhà phân phối tận dụng hiện tượng xã hội này. Ví dụ, Apple cho những người có sức ảnh hưởng sử dụng AirPods. Nhờ đó, khi bạn xem các video mới từ các YouTuber nổi tiếng, bạn sẽ thấy AirPods trên tai họ, và nó đại diện cho một phong cách sống mà bạn muốn học theo. Từ đó, việc bạn muốn sắm một cặp AirPods đã trở thành một ý thức chung.
Khả năng biến các khách hàng thụ động - hay giới phê bình - thành fan cuồng được miêu tả trong một nghiên cứu của Henri Tajfel 50 năm trước. Thuyết của Tajfel là ông có thể tạo ra lòng trung thành "nhân tạo" đối với một nhóm người, đủ để có thể phân biệt với nhóm khác. Đây được gọi là "Thử nghiệm Seminal", trong đó Tajfel cho các cá nhân vào các nhóm dựa trên các câu hỏi họ được hỏi trong quá trình thử nghiệm (như số chấm hiện ra trên tường). Khi lập được nhóm với nhau, các cá nhân đột nhiên trở nên liên kết với nhau nhờ vào lòng trung thành vừa được tạo ra này, đơn giản là dựa trên các câu trả lời nhàm chán mà họ đưa ra.
Thí nghiệm này được sử dụng để lý giải cho hiện tượng hâm mộ Apple trong những năm Steve Jobs còn tại vị. Làm sao mà mọi người có thể trung thành với nhau và với Apple như vậy, trong khi lại có thái độ thù hằn với những người khác?
Thực ra điều này liên quan đến cách hoạt động của não bộ chúng ta - vốn luôn muốn là một phần của một nhóm nào đó. Dựa trên những quyết định của những người tiên phong sử dụng đầu tiên, cả xã hội có thể nhanh chóng cảm thấy họ đang bị tụt lại phía sau, không cần biết công nghệ hay cải tiến đó kỳ quặc như thế nào. Từ Pebble Watch đến bitcoin, những người tiên phong chính là những người dự báo thứ tiếp theo sẽ trở thành trào lưu lớn. Trong nhiều năm tới, chúng ta sẽ trở nên quen thuộc với những thứ mà ngày nay được xem là kỳ lạ, như mạch máu tự in ở nhà, hay giác mạc in 3D để phẫu thuật mắt.
" alt=""/>Tại sao AirPods bị cả Internet nhạo báng khi ra mắt lại thành công?