![]() |
Ảnh minh họa. |
>> Nokia giới thiệu Lumia Windows Phone mới vào 14/5
đầutiênngàtin bóng đá mới nhất![]() |
Ảnh minh họa. |
>> Nokia giới thiệu Lumia Windows Phone mới vào 14/5
đầutiênngàtin bóng đá mới nhấtWeb 3.0 hoạt động dựa trên một số công nghệ và nguyên tắc cốt lõi, trong đó công nghệ blockchain và hợp đồng thông minh đóng vai trò quan trọng. Dưới đây là một phần quan trọng trong quá trình hoạt động của Web 3.0:
Blockchain:Công nghệ blockchain là một hệ thống phân cấp, phân tán và công khai, nơi dữ liệu được lưu trữ trong các khối liên kết và được xác thực bởi một mạng lưới ngang hàng của các nút (nodes). Blockchain cung cấp tính bất biến và khả năng chống giả mạo thông tin. Trong Web 3.0, blockchain được sử dụng để lưu trữ dữ liệu và ghi nhận các giao dịch một cách an toàn và công khai.
Hợp đồng thông minh:Hợp đồng thông minh là các chương trình tự thực hiện, tự thực thi và không thể thay đổi được, được xây dựng trên nền tảng blockchain. Chúng cho phép việc thi hành các điều khoản và điều kiện của một hợp đồng một cách tự động và đáng tin cậy. Trong Web 3.0, hợp đồng thông minh được sử dụng để định nghĩa các quy tắc và điều kiện trong các giao dịch và tương tác phi tập trung.
Phân quyền và quyền riêng tư:Web 3.0 đặt sự chú trọng đến quyền kiểm soát và quyền riêng tư của người dùng. Thay vì dữ liệu người dùng được lưu trữ và quản lý tập trung, người dùng có quyền kiểm soát dữ liệu cá nhân của mình và có thể chia sẻ nó theo ý muốn. Các công nghệ mã hóa và quyền riêng tư được tích hợp để bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Tương tác ngang hàng:Trong Web 3.0, tương tác giữa người dùng và ứng dụng diễn ra trực tiếp và ngang hàng. Thay vì thông qua các nền tảng trung gian, người dùng có thể tương tác trực tiếp với nhau thông qua giao thức phi tập trung. Các giao dịch và tương tác được xác nhận và ghi nhận trong blockchain, đảm bảo tính toàn vẹn và an toàn.
Tiềm năng kinh tế phi tập trung:Web 3.0 tạo điều kiện cho sự phát triển các hệ thống kinh tế phi tập trung. Các ứng dụng và dịch vụ phi tập trung có thể sử dụng hợp đồng thông minh để tạo ra các hình thức giao dịch và quản lý tài sản mới. Các giao dịch kinh tế có thể được thực hiện một cách tự động và minh bạch, không cần sự trung gian của bên thứ ba.
Xác thực và đáng tin cậy:Blockchain trong Web 3.0 cung cấp một cơ chế xác thực và đáng tin cậy cho các giao dịch và dữ liệu. Nhờ tính chất phân tán và công khai của blockchain, thông tin và giao dịch được xác nhận và ghi nhận bởi một mạng lưới ngang hàng của các nút. Điều này giúp ngăn chặn gian lận và thay đổi thông tin trái phép, đồng thời tăng cường tính minh bạch và tin cậy trong Web 3.0.
Tiêu chuẩn hóa và tương thích:Một yếu tố quan trọng trong Web 3.0 là sự phát triển các tiêu chuẩn và giao thức chuẩn để các ứng dụng phi tập trung có thể tương tác với nhau. Blockchain đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các tiêu chuẩn này và đảm bảo tính tương thích giữa các dịch vụ và ứng dụng khác nhau. Việc sử dụng các tiêu chuẩn này giúp đơn giản hóa việc tương tác và tích hợp giữa các ứng dụng trên Web 3.0.
Tạo điều kiện cho token và tiền điện tử:Blockchain cung cấp nền tảng cho việc phát hành và quản lý các token và tiền điện tử trong Web 3.0. Các ứng dụng phi tập trung có thể sử dụng blockchain để tạo ra các hệ thống tài chính phi tập trung, các thị trường phi tập trung và các dịch vụ tài chính khác. Việc sử dụng blockchain trong việc tạo ra và quản lý token và tiền điện tử đảm bảo tính bảo mật, toàn vẹn và minh bạch trong các giao dịch tài chính trên Web 3.0.
Sự phát triển của ứng dụng phi tập trung:Blockchain tạo điều kiện cho sự phát triển và triển khai các ứng dụng phi tập trung trên Web 3.0. Nhờ tính chất phi tập trung, các ứng dụng này có thể giúp người dùng kiểm soát dữ liệu cá nhân hơn, tăng cường quyền riêng tư và cung cấp các dịch vụ mới và cải thiện trải nghiệm người dùng.
Tóm lại, blockchain chơi một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Web 3.0. Nó cung cấp tính toàn vẹn, bảo mật, tin cậy và tính tương thích giữa các ứng dụng và dịch vụ phi tập trung trên nền tảng Web 3.0. Blockchain cũng tạo điều kiện cho sự phát triển các ứng dụng tài chính phi tập trung và sử dụng các tiền điện tử và token.
Xem thêm: Blockchain là gì? Tìm hiểu về công nghê Blockchain từ A tới Z
Xem thêm: Lịch sử blockchain phát triển như thế nào? Ai là người phát mình ra?
"Tin tức và giá tiền ảo Bitcoin cùng công nghệ Blockchain cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan và cập nhật về thị trường tiền điện tử. Tuy nhiên, thông tin này chỉ mang tính chất tham khảo và không nên được coi là lời khuyên đầu tư. Người dùng nên tự phân tích và đánh giá kỹ lưỡng, cũng như cân nhắc rủi ro trước khi đưa ra bất kỳ quyết định đầu tư nào liên quan đến tiền điện tử"
Ngày 17/7 (giờ địa phương - rạng sáng 18/7 giờ Việt Nam), đại diện Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao cho Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS) Hồ sơ Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C).
Trân trọng giới thiệu tuyên bố như sau:
1. Là quốc gia lục địa tiếp giáp với Biển Đông và là quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), căn cứ vào các quy định liên quan của UNCLOS và phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của mình, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, khoa học để khẳng định Việt Nam có quyền có thềm lục địa tự nhiên mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Năm 2009, Việt Nam đã hoàn thành 2 Đệ trình quốc gia: Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông (VNM‑N), Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C); đồng thời hợp tác cùng Ma-lai-xi-a xây dựng Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông. Tháng 5/2009, Việt Nam đã nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông và cùng với Malaysia nộp Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông. Trong Công hàm gửi CLCS khi đó, Việt Nam đã khẳng định sẽ nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông vào thời điểm sau (nêu tại Công hàm số CLCS.37.2009.LOS ngày 11/5/2009 của Tổng Thư ký Liên hợp quốc gửi tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc).
2. Sau khi một số quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông đã nộp các Đệ trình riêng của mình từ năm 2019 đến nay, việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông là nhằm bảo đảm các quyền hợp pháp của Việt Nam đối với phần thềm lục địa mở rộng của Việt Nam tại khu vực giữa Biển Đông mà Việt Nam hoàn toàn có quyền được hưởng phù hợp với Điều 76 của UNCLOS. Việt Nam khẳng định việc Việt Nam nộp Đệ trình tại Khu vực Giữa Biển Đông không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông trên cơ sở UNCLOS.
3. Nhân dịp này, Việt Nam khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông được xác lập phù hợp với UNCLOS. Đồng thời, Việt Nam cam kết sẵn sàng giải quyết và kiểm soát các tranh chấp, bất đồng về chủ quyền lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các tranh chấp về phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình, đồng thời cùng các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và phát triển bền vững ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.