- Thích xưng “mình” với người đối thoại,ệutrưởngvõsưVịnhXuânnóichuyệnbọntrẻlịch thi đấu bóng đá mu thích gọi học sinh trong trường là “bọn trẻ con”, không ngần ngại dùng những tính từ mạnh như “ngu”, đau khổ”… thầy Lương cởi mở và hồn nhiên nói về những “cái xấu” của mình cũng như nói về “công trạng”. Một cuộc nói chuyện như dự định ban đầu là ít bàn về công việc, nhưng rồi mọi câu chuyện liên quan vẫn là gắn với trường lớp, với học trò.
Hiệu trưởng,võ sư Vịnh Xuân nói chuyện 'bọn trẻ con'
- Thích xưng “mình” với người đối thoại,ệutrưởngvõsưVịnhXuânnóichuyệnbọntrẻlịch thi đấu bóng đá mu thích gọi học sinh trong trường là “bọn trẻ con”, không ngần ngại dùng những tính từ mạnh như “ngu”, đau khổ”… thầy Lương cởi mở và hồn nhiên nói về những “cái xấu” của mình cũng như nói về “công trạng”. Một cuộc nói chuyện như dự định ban đầu là ít bàn về công việc, nhưng rồi mọi câu chuyện liên quan vẫn là gắn với trường lớp, với học trò.
相关文章
- 、
-
Nhận định, soi kèo Unirea Slobozia vs Sepsi, 22h00 ngày 17/1: Nỗ lực cải thiện phong độ -
Chàng trai 'đi suốt ngàn năm'Trần Quang Đức tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc, chuyên ngành Hán Nôm. Anh từng đoạt giải nhất trong cuộc thi Hán ngữ toàn quốc, và đã giành được học bổng toàn phần tại Đại học Bắc Kinh. Tốt nghiệp đại học ra trường, vốn kiến thức chữ Hán của anh càng được bổ sung lấp đầy. Cuốn sách "Ngàn năm áo mũ" được xuất bản, ghi nhận một sự làm việc hết mình, sự nghiên cứu say mê chữ Hán của anh. Bởi, phải có một kiến thức sâu mới có thể nghiên cứu được vốn tư liệu đồ sộ để viết nên cuốn sách.
Trần Quang Đức trong buổi tọa đàm ra mắt cuốn sách "Ngàn năm áo mũ".
"Ngàn năm áo mũ" là một công trình nghiên cứu sâu rộng về trang phục Việt trong ngót nghét 1.000 năm từ thời Lý (1009) đến thời Nguyễn (1945) về trang phục cung đình và trang phục dân gian của người Việt. Cuốn sách dày 400 trang, bao gồm những ghi chép tỉ mỉ, cùng đầy đủ những hình ảnh minh họa.
Trang phục của người Việt trong cả 1.000 năm phong kiến được miêu tả lại một cách đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết. Vì trang phục người Việt thay đổi theo từng triều đại, nên các chương, các phần của cuốn sách cũng được chia ra theo từng triều đại khác nhau. Mỗi triều đại, tác giả lại chia ra làm 2 phần lớn: trang phục thường dân và trang phục cung đình. Trang phục cung đình lại được chia ra nhiều mảng nhỏ: Trang phục hoàng đế (lễ phục, triều phục, thường phục, quân phục); trang phục bá quan; trang phục hậu cung; trang phục quân đội… Không chỉ đưa ra đầy đủ hình dáng, hoa văn, màu sắc, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ các phụ kiện đi kèm như hoa cài mũ, đai lưng, chi tiết của hài…
Có hai tư tưởng chính ảnh hưởng đến việc lựa chọn, đặt định quy chế trang phục cung đình của triều đình Việt Nam là tư tưởng Đế vương và quan niệm Hoa Di. Quan niệm coi văn minh Trung Hoa là thước đo tiến bộ, nên trang phục cung đình Việt Nam các đời vẫn được đặt định theo chuẩn mực của các quy chế Trung Hoa cổ điển, ngoại trừ hai triều đại Nguyên, Thanh. Nhưng, tư tưởng đế vương, ngang hàng với thiên tử Trung Hoa của vua quan người Việt lại được thể hiện rất rõ qua lễ phục của triều đình. Chẳng hạn như, ngay từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần, trong các dịp đại lễ, nhà vua đều mặc áo Cổn, đội mũ Miện, tương tự Hoàng đế Trung Quốc. Theo quy chế đó, Long Cổn còn gọi là Cổn phục, hoặc gọi tắt là Cổn, là lễ phục của đế vương và vương công đại thần. Như Phạm Đình Hổ ghi nhận, một bộ Cổn Miện dành cho đế vương mũ Miện phải có 12 lưu, lưu có 12 ngọc, Cổn phục thêu 12 chương. Trong đó, chương là các dạng hoa văn thêu trên lễ phục, tượng trưng cho trời đất, vạn vật. Các vị vua nước Việt luôn sử dụng mũ Miện 12 lưu, áo Cổn 12 chương, khác với vua Triều Tiên chỉ dùng mũ 9 lưu, áo 9 chương theo quy chế dành cho vương công, đại thần. "Bất kể quan niệm của người phương Bắc cho rằng, trời chỉ có một thiên tử, thiên hạ chỉ có một hoàng đế, song không ít thủ lĩnh nước Việt mỗi khi giành được độc lập, giành quyền làm chủ cõi đất phương Nam đều xưng đế".
Ngoài ra, trang phục còn gián tiếp thể hiện sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, mỹ thuật của một thời đại. Nhà Lý là triều đại thịnh trị, bởi vậy trang phục cung đình trong thời kỳ này cũng hết sức cầu kỳ, sang trọng: "Riêng với trang phục của bá quan, Văn hiến thông khảo cho biết mũ Phốc Đầu, ủng, hốt, hài đỏ, đai vàng, đai sừng tê của đoàn sứ thần nhà Lý, thứ nào cũng được dát vàng; phục sức Ngư Đại đều được sử dụng ở các nước đồng văn cùng thời, nhưng Ngư Đại vàng của Đại Việt được miêu tả là rất dài và lớn...".
Còn như trang phục nhà Nguyễn, khảo cứu nhận định: "Đặt trong nhãn quan phong kiến đương thời, triều đình nhà Nguyễn bất luận thế nào cũng đã sở hữu một nền văn hiến áo mão có bề dày truyền thống và những cách tân đặc sắc, tự tin sánh ngang với các quốc gia Nho giáo như Trung Quốc, Triều Tiên, khiến Khâm sứ nhà Thanh là Lao Sùng Quang công nhận: Gần gũi Trung Hạ, tôn sùng Nho giáo, yêu chuộng thi thư, cùng được coi là đất thanh danh văn vật, ắt phải nói đến hai nước Triều Tiên và Việt Nam...".
Trong khi đó, trang phục dân gian không biến động nhiều, phổ biến là kiểu áo giao lĩnh, tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của đàn bà tồn tại qua hàng trăm năm lịch sử. Sự kiện vua Minh Mạng cấm "quần không đáy" là một biến cố lớn lao, để rồi chiếc áo dài năm thân đi vào đời sống dân gian và trở thành trang phục quan trọng bậc nhất của người Việt.
Sinh năm 1985 nhưng Trần Quang Đức có cái vẻ già dặn, nghiêm túc của một người làm công tác nghiên cứu. Trong phần tọa đàm với độc giả, anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ những thắc mắc của những người có mặt. Buổi ra mắt có sự tham dự của các nhà nghiên cứu, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, kiến trúc sư... và những người trẻ đam mê, thích thú với cuốn sách.
Nói về công việc làm sách, Trần Quang Đức cho biết, trong tất cả các cuốn sử, có ít cuốn sách ghi chép riêng về trang phục. Thế nên, anh đã phải bỏ nhiều công tìm kiếm tư liệu từ nhiều nguồn. Thời Lý, Trần hầu như còn rất ít các hiện vật. Anh phải tìm từ những ghi chép trong các cuốn sách, cộng với cả một quá trình tìm tòi, xem xét các hiện vật, rồi vào các đình chùa nghiên cứu, khảo thí, từ đó anh mới đúc kết, và rút ra diện mạo của trang phục. "Sử liệu có đến đâu tôi làm đến đó chứ không hề suy diễn" - Đó là một khẳng định chắc chắn của Trần Quang Đức. Ví dụ như khi "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi lại việc các quan trong triều vào chầu đi chân đất, nhưng đến thời Lý thì lại đi hia. Đó là một đặc điểm khác nhau giữa hai triều đại. Trần Quang Đức căn cứ vào có khi chỉ những chi tiết nhỏ như vậy, cộng với việc tìm tòi, so sánh từ nhiều nguồn tư liệu đồng đại. Thấy khớp với nhau, anh mới đưa ra kết luận, đánh giá. Hay trong các sử sách cũ có ghi chép lại về việc các sứ thần đi sứ, đều có ghi lại cách ăn mặc, đó cũng là một chi tiết để anh đưa ra so sánh. Cũng như thời phong kiến rất coi trọng các trang phục, vì trang phục là lễ nhạc, khi vào chầu, nhìn cách ăn mặc của các quan trong triều là có thể phân biệt được các cấp bậc quan trong triều.
Khi tìm hiểu về trang phục dân gian, có khi chỉ từ những ý tứ như "Tục truyền thượng cổ dân ta/ Đàn ông búi tó đàn bà vấn khăn" cũng được anh coi đó là một duyên cớ để đi tìm đặc điểm trang phục dân gian người Việt.
Nếu xem số tài liệu Trần Quang Đức tham khảo để viết được 400 trang sách, ta thấy anh đã phải sử dụng tới 230 cuốn sách tham khảo, cả những bức tranh có cách đây 600 năm, hay những bức tranh của người Nhật vẽ người Việt Nam cách nay 400 năm, cùng nhiều chuyến đi điền dã khắp các đình chùa, lăng tẩm.
Nhiều ý kiến tham luận, trong đó có cả ý kiến của các kiến trúc sư, nhà nghiên cứu tựu trung lại đều đánh giá cao công trình nghiên cứu nghiêm túc của Trần Quang Đức.
Ngồi cạnh tôi hôm ấy là một bà mẹ trẻ. Chị nói chị tận bên Ngọc Lâm. Thằng cu lớn nhà chị năm nay học lớp 4, bắt đầu học môn sử, chị muốn cháu đến nghe để hiểu biết thêm về lịch sử từ những hình ảnh trực quan sinh động. Có lẽ chỉ là một buổi nói chuyện đơn thuần thì khó có thể thu hút được những độc giả nhí như thế.
Ngoài sự nghiên cứu nghiêm túc, ở Trần Quang Đức còn có sự đam mê và dấn thân. Nếu không có sự dấn thân thì không thể nào hoàn thành được cuốn sách trong khoảng thời gian 3 năm như vậy. Trần Quang Đức đã một mình rong ruổi, với máy quay, máy chụp khắp các đình, đền, chùa Việt Nam từ Nam Định, Bắc Ninh, rồi Huế… cũng như các bảo tàng trong nước, rồi Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Theo anh cho biết, về phần khảo cứu trang phục thời Lý Trần, giai đoạn xa hơn thời Nguyễn, vì có ít tư liệu, nên anh vẫn có nhiều điểm chưa ưng, và cũng sẽ chờ đợi tiếp vào những hiện vật sau này khai thác thêm.
Khi được hỏi về trang phục được dùng trong các phim cổ trang của Việt Nam, Trần Quang Đức cho biết: "Trang phục Việt có những cái bất biến, nổi bật như nhuộm răng đen và đi chân đất. Các đoàn làm phim muốn có những trang phục thật thuần Việt, nhưng lại mâu thuẫn, họ muốn thuần Việt, nhưng lại muốn người Việt phải đẹp và phải văn minh. Chính vì thế mà nhiều phim Việt, trang phục được hầu như chưa đúng".
"Ngàn năm áo mũ" ghi nhận sự làm việc và dấn thân của chàng trai trẻ Trần Quang Đức. Nhà nghiên cứu Trịnh Bách nhận xét: "Có lẽ đây là một trong những tập tài liệu văn hóa, lịch sử trang phục được nghiên cứu sâu và được biên soạn kỹ nhất ở Việt Nam". Sách sau khi phát hành lần đầu đã nhanh chóng được tái bản lần 2 và nhận được sự đón chào nồng nhiệt của các bạn trẻ. Điều đó cũng có thể nói rằng, các bạn trẻ vẫn rất say mê môn lịch sử, quan trọng là cách tiếp cận như thế nào của người làm sử. Và cách làm như "Ngàn năm áo mũ" cần phát huy
(Theo Công An Nhân Dân)"> -
Nghiên cứu cho thấy AI giúp con người cảm thấy được lắng ngheẢnh: Adobe Stock Nhóm nghiên cứu Yidan Yin, Nan Jia và Cheryl J. Wakslak từ trường kinh doanh USC Marshall đã bắt đầu nghiên cứu để giải quyết câu hỏi: Liệu AI - thứ vốn thiếu những yếu tố về ý thức tự chủ và cảm xúc cá nhân - có thể thành công trong việc giúp con người cảm thấy được lắng nghe và thấu hiểu hay không?
Trong một thế giới nơi nhịp sống ngày càng trở nên vội vã và biến đổi nhanh chóng, sự kết nối có chiều sâu về mặt cảm xúc ngày càng suy giảm. Ngày càng nhiều người cảm thấy nhu cầu được lắng nghe và thấu hiểu cảm xúc của mình không được đáp ứng.
Trước bối cảnh này, phát hiện của nhóm nghiên cứu không chỉ nêu bật tiềm năng của AI trong việc nâng cao năng lực nhận thức và khả năng giao tiếp của con người mà còn đặt ra những câu hỏi quan trọng về ý nghĩa của việc được lắng nghe cũng như đặt ra các câu hỏi về cách tận dụng tốt nhất sức mạnh của AI để hỗ trợ con người.
Nghiên cứu này đã nêu bật những điểm khác biệt quan trọng. Các phản hồi do AI tạo ra đem đến những tác động tích cực về mặt cảm xúc cho người nhận, giúp họ giảm bớt nỗi buồn và đem lại nhiều hy vọng hơn. Trong thử nghiệm, AI cũng thực hiện cách tiếp cận khôn khéo hơn con người như ưu tiên những hỗ trợ về mặt tinh thần hơn là đưa ra những lời khuyên quá thực tế.
Yin chia sẻ: “Trớ trêu thay, trí tuệ nhân tạo giỏi hơn con người trong việc áp dụng những kỹ năng an ủi và đồng cảm đã được nghiên cứu trước đây trong tâm lý học. Con người có thể học hỏi từ công nghệ này vì thường chúng ta chưa biết cách đưa ra phản ứng phù hợp khi những người thân yêu của chúng ta phàn nàn hay bận lòng vì một điều gì đó”.
Những phát hiện khoa học mới với sự phát triển của công nghệ đã giúp những công cụ này trở nên có giá trị, giúp con người tận dụng công nghệ để gắn kết hơn. Với nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào nhiều bối cảnh xã hội hơn. Việc tận dụng các khả năng của AI sẽ đem đến giải pháp với cách tiếp cận toàn diện hơn với mức chi phí phù hợp để cả những cá nhân với điều kiện kinh tế yếu hoặc gặp trở ngại về địa lý cũng có thể sử dụng.
(Nguồn: Medicalxpress)
"> -
Blockchain không chỉ là “tiền ảo”Mỗi quốc gia, cá nhân, tổ chức lại có quan niệm hay cách định nghĩa khác nhau. Tuy vậy, dù theo cách hiểu nào, “tiền điện tử”, “tiền số” hay “tiền ảo”... nếu ứng dụng công nghệ Blockchain đều có thể gọi chung là “tiền mã hóa”.
Việt Nam hiện được các bảng xếp hạng quốc tế đánh giá cao về mức độ tiếp cận với tiền mã hóa. Nhiều người Việt biết đến tiền mã hóa, tuy nhiên không phải ai cũng biết đến công nghệ chuỗi khối (Blockchain).
Hiểu theo cách đơn giản nhất, Blockchain là một cuốn sổ cái mở và phân tán thông tin. Công nghệ này sử dụng một mạng lưới máy tính để lưu trữ, thay vì chỉ một hệ thống máy chủ, hay một vài máy chủ phân tán như thông thường.
Theo ông Mai Duy Quang - Phó Chủ tịch Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (Vinasa), công nghệ Blockchain đang được sử dụng phổ biến tại nhiều lĩnh vực khác chứ không chỉ tiền ảo.
“Hồ sơ học sinh, hồ sơ y tế cũng có thể lưu trữ trên Blockchain để tránh bị sửa đổi. Blockchain cũng có thể sử dụng để chứng thực cũng như trong các giao dịch cần bảo chứng và tốc độ”, ông Quang nói.
Tại Diễn đàn CTO Summit 2022, ông Vũ Anh Tú - Giám đốc Công nghệ Tập đoàn FPT từng cho biết, công nghệ Blockchain đang mở ra nhiều cơ hội ứng dụng trong thực tế, tạo ra một làn sóng khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo sôi nổi cả thế giới và Việt Nam.
Nhìn từ định nghĩa Blockchain là cơ chế lưu trữ và quản lý dữ liệu theo cơ chế phi tập trung, với khả năng đảm bảo toàn vẹn thông tin, Blockchain có thể được ứng dụng trong nhiều những ngữ cảnh khác nhau.
Tiền điện tử có thể được xem là ứng dụng phổ biến nhất của Blockchain, nhưng nó không phải là duy nhất. Với sức ảnh hưởng mang tính đột phá, Blockchain sẽ tạo ra cơn sóng thần công nghệ phủ lên toàn bộ các lĩnh vực ngành nghề từ truyền thống cho đến các ứng dụng mới.
Tại Việt Nam, Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng tiền ảo dựa trên công nghệ chuỗi khối trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2021-2025.
Tuy vậy, để công nghệ Blockchain có thể phát triển và ứng dụng nhiều hơn và thực tế đời sống tại Việt Nam, cần có sự quan tâm, hưởng ứng và cho phép thí điểm từ phía cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực khác chứ không chỉ dừng lại ở “tiền ảo” hay “tiền mã hóa”.
Trọng Đạt
">